Top 8 # Xem Nhiều Nhất Kiến Trúc Phong Thủy Việt Nam Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Saigonhkphone.com

Kiến Trúc Nhà Rường Nam Bộ

Kiến trúc nhà rường Nam Bộ được coi như là một di sản văn hóa truyền thống của Việt Nam, bởi đây là điển hình của một nền kiến trúc mang đậm tính nhân văn được tạo dựng qua nhiều thời kỳ lịch sử của dân tộc, gắn liền với môi trường thiên nhiên, xã hội với các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, phong tục tập quán cũng như ý thức thẫm mỹ của ông cha ta từ xưa. Mô phỏng kiến trúc nhà rường Nam Bộ (Ảnh 1)

Nhà rường là một loại kiến trúc cổ, ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, dưới triều đại phong kiến Việt Nam. Mặc dù chịu ảnh hưởng của lối kiến trúc Trung Hoa nhưng kiến trúc nhà rường Nam Bộ vẫn mang nét riêng biệt của người Việt. Gọi là rường bởi vì trong ngôi nhà có nhiều rường cột, rường kèo, với lối kiến trúc theo chữ Đinh, Khẩu hoặc chữ Công. Các gian trong nhà rường được tính bằng các hàng cột, không có vách ngăn.

Trong đó nhà chữ Đinh là loại nhà phổ biến nhất kiểu nhà này có hai căn, căn nhà trên nằm ngang và căn nhà dưới nằm xuôi, đòn dông của hai căn nhà này thẳng góc với nhau, giống như chữ Đinh trong Hán Việt. Đặc điểm của nhà chữ Đinh là cửa lớn của nhà trên trổ ở chiều dài của ngôi nhà, còn cửa lớn của nhà dưới trổ ở chiều rộng của ngôi nhà, do đó cửa lớn của hai căn nhà trên và nhà dưới đều mở ra cùng một hướng, có chung mái hiên, tạo nên sự đồng nhất cho toàn bộ ngôi nhà. Kiến trúc nhà chữ Đinh thể hiện ý thức về chê độ phong kiến rất rõ. Nhà trên là nơi quan trọng vì là nơi thờ cúng tổ tiên nên thường bề thế cao hơn nhà dưới, trong chế độ phong kiến thì chỉ có gia chủ mới được ở nhà trên, người làm công trong gia đình thì ở nhà dưới và không được phép lên nhà trên.

Kiến trúc sang trọng, ấm áp bên trong nhà rường Nam Bộ (Ảnh 2)

Tính chất chung của kiến trúc nhà rường Nam bộ, đó là có kết cấu nhà có không gian trong khá rộng rãi. Một số nhà rường biến thể có mái ngói kéo sà thấp xuống. Bên ngoài nhìn vào kiểu mái này thấy nhà có vẻ thấp, nhưng bước vào bên trong sẽ thấy hệ thống kèo cột và trần nhà rất cao làm cho nhà thoáng mát. Kiểu thiết kế mái đó có tác dụng che mưa và ánh nắng chói chang của vùng nhiệt đới, đồng thời hạn chế được tầm nhìn từ bên ngoài.

Hầu hết nhà rường đều có kỹ thuật xây dựng kiên cố với các loại gỗ quý. Mỗi ngôi nhà vừa là công trình kiến trúc đẹp mắt, vừa chứa đựng những tác phẩm điêu khắc phản ánh thiên nhiên trù phú và đời sống ổn định, văn hóa phát triển của dân cư Nam Bộ. Góp phần tạo nên những ngôi nhà rường đầy tính nghệ thuật còn phải kể đến những bàn tay khéo léo của những người thợ mộc xưa.

Tác phẩm chạm khắc tinh xảo chứa đựng sự tôn nghiêm trên cột nhà rường Nam Bộ (Ảnh 3)

Những nghệ nhân nghề mộc khéo léo, tài giỏi đã để lại những tác phẩm nghệ thuật của mình được chạm khắc tinh xảo, làm nổi bật sắc gỗ mộc thanh cảnh, tạo nên vẻ đẹp sinh động nhưng chứa đựng sự tôn nghiêm trong từng ngôi nhà cổ xưa.

Ngày nay, những kiến trúc nhà rường Nam Bộ không còn nhiều nữa, nhưng nhà rường không đơn thuần là tài sản của từng cá nhân, của từng địa phương mà nó đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc.

Kiến Trúc Nhà Rường Không Gian Việt Rất Huế

Về Kim Long, Phú Hiệp, Thủy Biều, Bằng Lãng hay những vùng ngoại ô của Huế như Phú Thanh, Phước Tích… dấu ấn thời gian dường như vẫn còn in đậm trong những ngôi nhà rường cổ rêu phong. Nói đến nhà rường, người ta nghĩ ngay đến Huế. Là vì, trên mảnh đất Thần Kinh xưa, vua chúa ở nhà rường, hoàng thân quốc thích ở nhà rường, quan lại, người giàu có ở nhà rường, ông bà tổ tiên, con cháu ở nhà rường thậm chí, trong cõi tâm linh người Huế, ma quỷ cũng ở nhà rường. Có nghĩa rằng, nhà rường là một phần quan trọng không tách rời làm nên nét riêng của văn hóa Huế.

Nhà rường là một loại kiến trúc cổ, ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, dưới triều đại phong kiến Việt Nam. Mặc dù chịu ảnh hưởng của lối kiến trúc Trung Hoa nhưng nhà rường Huế vẫn mang nét riêng biệt của người Việt. Gọi là rường bởi vì có nhiều rường cột, rường kèo, mè với lối kiến trúc theo chữ Đinh, Khẩu hoặc chữ Công. Gian trong nhà rường được tính bằng các hàng cột trong nhà, không có vách ngăn.

Dưới thời phong kiến, việc làm nhà không nằm ngoài luật lệ vua ban. Năm Minh Mạng thứ ba (1822), vua ấn định rằng tất cả các nhà xây dựng bên ngoài Đại Nội, dù phủ của hoàng thân quốc thích hay trưởng công chúa đều không vượt quá ba gian, hai chái. Do vậy, nhà rường Huế xưa chỉ có một gian hoặc ba gian hai chái, có diện tích nhỏ, nhưng về sau bỏ quy định này mà chỉ quy định nhà dựng lên không vượt quá chiều cao cung điện của vua chúa. Do đó, nhà rường Huế thường thấp, mái nhà có độ dốc lớn.

Khi làm nhà, gia chủ xem phong thuỷ lựa chọn khu đất tốt, phù hợp với tuổi của chủ nhân để có được “thế nhà” tốt, thuận lợi cho việc sinh hoạt của gia chủ. Hướng thường thấy ở các ngôi nhà rường là hướng nam, nắng xiên vách. Bếp được dựng ở bên trái và vuông góc với nhà chính. Ngôi nhà được dựng trong không gian có vườn cây trái, hoặc có hàng cau trước sân, có cổng lớn và có lối đi dẫn từ cổng vào nhà, nhưng muốn vào nhà, khách phải đi rẽ sang hai bên lối dẫn vào chứ không đi thẳng trực tiếp vào.Nhà rường Huế thường có 5 gian, gồm 3 gian chính và 2 gian phụ (thường gọi là chái), cá biệt cũng có nhà đến 7 gian (5 gian chính và 2 gian phụ). Giữa nhà có hàng cột cái (cột chính) cao to, với các tên gọi khác nhau: hai cột trong phía Đông gọi là “nhứt đông hậu”, hai cột trong phía Tây gọi là “nhứt tây hậu”, hai cột ngoài phía Đông gọi là “nhứt đông tiền”, hai cột ngoài phía Tây gọi là “nhứt tây tiền”. Các cột cái liên kết với kèo để đỡ khung nhà và mái.

Cột thường được làm bằng gỗ mít, trau chuốt, dáng thượng thu hạ thách, các cột cái được nâng cao hơn bởi các bệ đá. Các cột quân (cột phụ) thì nhỏ hơn. Dãy cột quân lùi bên trong hàng cột cái gọi là dãy cột hàng nhì hậu, dãy cột quân tiến phía trước hàng cột cái gọi là cột hàng nhì tiền. Hai dãy cột này để đỡ kèo nhì gác qua. Bốn góc nhà có bốn cột quyết để đỡ kèo quyết và chúng được phân chia thành đông hậu, tây hậu, đông tiền, tây tiền. Bốn cột đấm ở vách đông, tây đỡ các kèo đấm thả xuôi từ cột cái. Các cột cái và cột quân chia không gian nhà ra làm ba phần: gian chính giữa lẫn hai gian bên thờ phụng, tiếp khách và cũng là nơi ngủ của người đàn ông. Hai chái hai bên là hai buồng gọi là đông phòng và tây phòng, là buồng ngủ dành cho phụ nữ và con cái.

Đặc biệt, sự độc đáo và tinh túy nhất của những ngôi nhà rường Huế chính là những nét chạm trổ trên các cột gỗ, bao lam chạm khắc công phu, cầu kỳ… Tuỳ theo ý thích của gia chủ mà trên các hàng cột người ta chạm cách điệu hoa văn: tứ quý, bát bửu, hoa lá, chữ nho… với mong muốn sống lâu, thịnh vượng… Dù nhà rường Huế lớn đến mức nào thì vẫn thường theo quy tắc hội đủ ba tiêu chuẩn: vững chắc, tiện nghi và dung hòa với kết cấu chặt chẽ, bao quanh nhau hợp lý. Ngoài những nét đẹp kiến trúc, cổ kính xưa cũ thì nhà rường Huế lưu giữ nhiều hiện vật quý giá như sách, câu đối, sách cổ… đặc biệt là “mộc bản” là kho di sản văn hóa truyền thống đặc biệt của người dân Huế.

Nhà rường ngày nay không chỉ là của riêng đất cố đô, song vẫn được coi là di sản đặc trưng của Huế. Sự biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế – xã hội đất nước đã và đang dần làm nhà rường mai một đi, nhưng sự phát triển mạnh của du lịch Huế đã tiếp thêm nguồn sinh lực cho việc phục hồi mạnh mẽ hàng loạt loại hình văn hóa dân gian ở Huế, phục hồi những ngôi nhà rường đặc trưng lối sống, phong cách Huế, tâm hồn Huế. Đặc biệt, việc bảo tồn, trùng tu, xây dựng mới những ngôi nhà rường dưới sự hỗ trợ của một số tổ chức phi chính phủ trong nhiều năm gần đây chính là giúp Huế gìn giữ được tài sản văn hóa quý báu của dân tộc, gìn giữ được nét đẹp của Huế xưa.

Theo: KienvietẢnh: Sưu tầm

Kiến Trúc Nhà Theo Phong Thủy

Sự tương đồng với xung quanh

Vị trí căn nhà của chúng ta đặt trong bối cảnh môi trường sống và mức độ tương xứng của nó so với các ngôi nhà khác trong khu vực xung quanh có thể ảnh hưởng đến sự thoải mái của chúng ta khi sống ở đó.

Nếu ngôi nhà của chúng ta là một dinh tự nguy nga nằm chơ vơ, biệt lập trên một con đường toàn những ngôi nhà nhỏ nằm liền nhau thì chúng ta sẽ bị tách biệt khỏi cộng đồng. Tương tự, nếu căn nhà có lối kiến trúc quá lạ so với các ngôi nhà hàng xóm thì nó không phù hợp với môi trường đó.

Các quy định nghiêm ngặt về quy hoạch xây dựng ở một số nơi đã gìn giữ được cái “thần” hay khí của thị trấn và ngôi làng, và ở những khu vực đó người ta thường có ý thức về cộng đồng.

Ngược lại, ở những nơi các khối nhà chọc trời, không bị hạn chế về chiều cao được dựng lên chen giữa những ngôi nhà hai tầng mà chẳng đoái hoài gì đến cảnh sắc môi trường thì nơi đó khí bị phát tán và ý thức cộng đồng cũng không có.

Khi cải sửa hay trang trí lại căn nhà của mình, chúng ta phải chú ý đến tác động của nó đối với những căn nhà bên cạnh. Nếu nhà của chúng ta là căn nhà trát thạch cao duy nhất trong dãy nhà gạch thì chúng ta tự cô lập mình và thay đổi tính chất của khí trong khu vực.

Nếu tất cả ngôi nhà trong khu phố xây dựng theo lối kiến trúc của một thời nào đó, trong khi chúng ta muốn thay kiểu cửa sổ hoặc thay đổi đáng kể các chi tiết kiến trúc thì một lần nữa chúng ta lại làm tổn hại năng lượng của môi trường.

Cửa ra vào, cột ống khói và hàng hiên đều đóng góp tính cách riêng và sự cân đối chung không những cho ngôi nhà của chúng ta mà còn cho toàn khu phố.

Nguồn: Tổng Hợp

Cùng Danh Mục

Phong Thủy Lạc Việt Ứng Dụng Trong Kiến Trúc Nhà Riêng Của Nguyễn Vũ Tuấn Anh (3)

V ề yếu tố Loan đầu – Cảnh quan môi trường – thì trên thực tế của cuộc sống hiện đại rất khó lựa chọn theo ý muốn. Thế đất của tôi còn bị một yếu tố xấu nữa: Đó chính là mỗi khi triều cường, lòng đường lại ngập nước. Xét tương quan ngôi nhà và môi trường lại phạm cách “Dương thịnh, Âm suy”. Về mặt kỹ thuật thì Thiên Anh (Hoàng Anh) – Học viên khóa Phong thủy Lạc Việt cao cấp – Giám đốc Cty xây dựng và Nội thất Gia Phúc – bảo đảm làm rất kỹ nền móng. Tất nhiên Thiên Anh sẽ hiểu tôi muốn gì và biết cần phải làm gì với ngôi gia của tôi theo Phong Thủy Lạc Việt. Kết quả của sự xây dựng này về mặt phong thủy chính là nội dung của bài viết này.

Về mặt lý thuyết của thuyết Âm Dương Ngũ hành ứng dụng trong phong thủy – thì – việc đóng cọc, gia cố nền móng , cũng chính là một biện pháp cân bằng Âm Dương ở những cuộc đất nền không cứng chắc (Âm suy). Việc quy hoạch đường nội bộ trong tương lai sẽ nâng cao mặt đường lên khoảng nửa mét (Âm vượng) – Do đó, để cân bằng Âm Dương trước quy hoạch thì nền nhà phải cao – trường hợp này lại phạm cách “Cô Âm” cho chính ngôi gia, khi nền đường chưa nâng cao.

Để khắc phục các cách phạm tiêu chí phong thủy này, cũng còn có cả chút may mắn. Đó là xung quanh ngôi gia của tôi, đều đã có nhà xây cất từ trước. Nền của họ khá cao. Nên cách “cô Âm” của ngôi gia của tôi không hoàn toàn cô Âm. Có thể nói rằng: nếu như ngôi gia của tôi được xây đầu tiên trong cuộc đất này và xung quanh trống trải thì chắc chắn tôi không thể mua miếng đất ở đây để xây nhà.

Sơ đồ phiên tinh phòng.Qua đó, bạn đọc cũng thấy rất rõ rằng: Chỉ riêng về yếu tố cảnh quan môi trường tác động lên ngôi gia, cũng cho thấy những liên hệ tương tác từ tổng hợp cảnh quan khu vực rộng, cho đến chi tiết chung quanh ngôi gia đều cần phải xét đến.

Trên thực tế thì yếu tố cảnh quan xấu, chỉ có thể khắc phục bởi chính cấu trúc hình thể nhà tương quan.

Phần tiếp theo đây là phần nội dung ứng dụng chính của Phong Thủy Lạc Việt trong kiến trúc ngôi gia của tôi.

Trong cấu trúc hình thể nhà được quán xét trên cơ sở hai yếu tố tương tác căn bản – mà cổ thư chữ Hán gọi là “trường phái Bát Trạch” và trường phái “Dương trạch tam yếu”, có cân nhắc và tham chiếu với yếu tố cảnh quan môi trường (Loan đầu).

Sự nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy đây chính là hai yếu tố tương tác có mối liên hệ khá chặt chẽ và hoàn toàn không hề mâu thuẫn nhau. Mặc dù chúng có hệ quy chiếu khác nhau và hệ thống phương pháp luận ứng dụng riêng; nhưng chúng hoàn toàn hỗ trợ và bổ sung cho nhau khá chặt chẽ.

Nó tương tự như ngành “gây mê hồi sức” và ngành mổ xẻ trong y học vậy. Không thể coi đây là hai “trường phái” trong y học được. Chính vì tính tương tác phức tạp của các yếu tố trên trong phong thủy và là hệ quả của sự thống nhất từ hệ thống lý thuyết căn bản là thuyết Âm Dương ngũ hành – cho nên có thể sử dụng ưu thế của hệ quy chiếu của yếu tố tương tác này, để khắc phục những yếu tố xấu xét từ một hệ quy chiếu của yếu tố tương tác khác.

Sự mâu thuẫn giữa các “trường phái” trong phong thủy; sự mơ hồ về những khái niệm cũng như nội dung từ cổ thư chữ Hán và tính bất hợp lý trong sự xuất hiên của chính những cái gọi là “trường phái” trong lịch sử phong thủy từ văn minh Hán, thì chúng tôi đã có nhiều bài viết chứng minh trên diễn đàn, bạn đọc có thể tham khảo.

Ở đây, chúng tôi chỉ trình bày về sự ứng dụng của Phong Thủy Lạc Việt, nhằm thể hiện tính nhất quán, hoàn chỉnh, tính hệ thống tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri của ngành học này – hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học cho một hệ thống phương pháp luận ứng dụng, nhân danh khoa học – thuộc về một nền văn minh cổ xưa, được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt. Bát trạch Lạc Việt & Cấu trúc hình thể – Hình Lý khí Lạc Việt Ứng dụng trong kiến trúc ngôi gia Nguyễn Vũ Tuấn Anh Sơ đồ mặt bằng nhà, phân cung theo Bát Trạch Lạc Việt

Cấu trúc hình thể – Hình Lý khí Lạc Việt ” – tương đương “Dương trạch tam yếu” – Tức nhất quán với nguyên lý căn để “Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt ” (Đổi chỗ Tốn/ Khôn).

Cấu trúc hình thể nhà.

Từ sơ đồ kiến trúc nhà và hình ảnh bạn đọc cũng nhận thấy những tiêu chí và nguyên tắc ứng dụng trong phong thủy đều được ứng dụng triệt để và hoàn toàn nhất quán với nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt – Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt trong việc phân cung, điểm hướng và kiến trúc.

Quí vị và anh chị em quan tâm thân mến.

Nếu như tri thức khoa học hiện đại xác định được rằng: Bản chất của mọi vật thể có khối lượng trong vũ trụ, đều có cấu trúc từ những hạt vật chất vi mô, gọi là những hạt cơ bản. Thuyết Lượng tử của Vật Lý hiện đại nhận thấy sự giống nhau giữa cái chìa khóa lạnh ngắt và bông hồng đầy cảm xúc. Nhận thức của khoa học hiện đại mới chỉ đạt tới tính trực quan – thông qua các phương tiện kỹ thuật – và mang tính cơ học.

Nhưng trong Lý học Đông phương, nền tảng nhận thức không những hoàn toàn tương đồng như tri thức khoa học hiện đại, khi xác định rằng: “Vạn vật đông nhất thể”;mà còn tỏ ra vượt trội hơn rất nhiều khi ứng dụng trong cuộc sống của con người – cụ thể là ngành phong thủy.

Phong thủy Lạc Việt xác định rằng: Mọi ngôi gia, thậm chí từng căn phòng trong ngôi gia đều có thể coi như những sinh thể sống. Tính biểu tượng và mối liên hệ giữa các biểu tượng với ngôi gia đều được ứng dụng triệt để. Thí dụ như tính tương sinh của Ngũ hành – mái nhà nhọn, đỏ thuộc Hỏa sinh căn nhà vuông ,màu vàng thuộc Thổ; hoặc nhà hình cái ấn: hình “lộ cốt phòng”….vv….Tất cả những cái đó đều mang tính biểu tượng và mối liên hệ tương quan với những biểu tượng đó trong việc tương tác với con người trong ngôi gia.

Qua đó, bạn đọc cũng thấy rằng: Khi khoa học hiện đại mới chỉ dừng lại ở tính nhận thức thì nền văn minh cổ xưa không những cũng có sự tương đồng về nhận thức, mà còn tỏ ra vượt trội khi ứng dụng cụ thể trong cuộc sống của con người, qua mối liên hệ giữa các biểu tượng trong sự ứng dụng trong phong thủy.

Do đó, việc nghiên cứu và ứng dụng Phong Thủy Lạc Việt – và Lý học Đông phương nói chung – đòi hỏi một tư duy trừu tượng rất phong phú và phát triển, để quán xét mối liên hệ giữa mọi hiện tượng.