Top 11 # Xem Nhiều Nhất Xem Phim Đại Phong Thủy Có Thuyết Minh Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Saigonhkphone.com

Thuyết Minh Về Cầu Rồng Đà Nẵng

Kế hoạch dự án

Vào khoảng thời gian từ 2005, kinh tế Đà Nẵng đang trên đà phát triển. Bắt qua sông Hàn lúc bấy giờ chỉ có cầu sông Hàn và cầu Nguyễn Văn Trỗi, cầu Tiên Sơn. Cầu Thuận Phước thì đang trong quá trình xây dựng.

Một số cây cầu khác nằm ở xa trung tâm. Đà Nẵng đặt mục tiêu phải xây đủ 9 cây cầu bắc qua sông Hàn. Điều này giúp đáp ứng nhu cầu giao thương đi lại của người dân.

Bên cạnh đó, 3 cầu 9 chùa là một sự cân bằng phong thủy đem lại sự bình yên thịnh vượng cho Đà Nẵng. Vì thế, chính quyền thành phố quyết định xây thêm một cây cầu thứ 6 gắn liền với linh vật rồng.

Thành phố phát động cuộc thi thiết kế kiến trúc cầu Rồng với sự tham gia của 8 đơn vị. Trong đó có 4 đơn vị của Việt Nam, 2 Nhật Bản, 1 Đức và 1 Mỹ. Những đơn vị thiết kế này trình bày tổng cộng 17 phương án.

Cuối cùng, phương án của Mỹ (liên danh The Louis Berger và Ammann & Whitney) đã được thông qua. Hầu như hướng dẫn viên nào cùng đều đề cập điều này khi thuyết minh về cầu Rồng Đà Nẵng.

Lịch sử xây dựng

Cầu Rồng có quy mô xây dựng vĩnh cửu, kinh phí xây dựng 1500 tỷ đồng. Tổng thời gian xây dựng kéo dài trong 8 năm. Đơn vị xây dựng là Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1. Tiến trình xây dựng theo dòng thời gian như sau:

Cuối năm 2005: Phát động cuộc thi thiết kế

Tháng 10/2007: Chọn phương án thiết kế của Mỹ

Tháng 12/2008: UBND tp Đà Nẵng phê duyệt dự án

Tháng 9/2009: Khởi công xây dựng cầu Rồng tại bờ Đông của sông Hàn

Tháng 10/2012: Nhịp cầu chính được hoàn thành

Tháng 3/2013: Cầu hoàn thành và chính thức được thông xe

Đặc điểm kiến trúc

Cầu dài 666m, rộng 37.5m và có 6 làn xe chạy. Trong đó, chiều rộng cho xe chạy là 24.5m, lề bộ hành 5m và dải phân cách là 6m. Chiều cao từ cầu đến mặt nước sông không thông thuyền là 7m.

Cầu được thiết kế với hình dạng 1 con rồng màu vàng với khả năng phun lửa và phun nước. Đây là biểu tượng rồng thời nhà Lý, đuôi rồng có hình hoa sen, quốc hoa của Việt Nam. Đầu Rồng hướng về phía biển.

Hiện tại, cầu thu hút rất đông du khách đến xem phun lửa, nước vào 9h tối hai ngày cuối tuần. Bên cạnh đó, vào các ngày lễ lớn, cầu rồng cũng được tổ chức phun lửa và phun nước để phục vụ người dân.

Ý nghĩa của cầu Rồng

Khi thuyết minh về cầu Rồng Đà Nẵng, hướng dẫn sẽ nói về ý nghĩa. Cây cầu Rồng nối liền đường Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt, chạy thẳng ra biển Mỹ Khê. Nó tạo thành một cung đường ngắn nhất nối liền 2 quận và đi ra sân bay.

Điều này tạo thành nhiều thuận lợi cho đời sống người dân và tránh tình trạng kẹt xe. Giá trị du lịch của cây cầu cũng rất lớn, đặc biệt là cuối tuần. Hầu hết du khách đến với Đà Nẵng đều muốn được xem cầu Rồng phun lửa.

Bên cạnh đó, yếu tố tâm linh và phong thủy của cầu cũng được phát huy triệt để. Hình ảnh Rồng thể hiện cho sự cao quý, mạnh mẽ và siêu nhiên mà nhiều người tôn sùng.

Linh vật Rồng sẽ bảo vệ người dân nơi đây được bình an. Cây cầu Rồng vươn lên giữa bầu trời xanh chính là ước vọng được vươn cao hơn nữa của Đà Nẵng.

Cầu Rồng – Niềm tự hào của người Đà Nẵng

Bất cứ người dân Đà Nẵng nào cũng đều tự hào vì thành phố đáng sống của mình có nhiều cây cầu đẹp. Trong đó, cây cầu Rồng đặc biệt đã chiếm một vị trí lớn trong tim họ.

Cầu Rồng ra đời mang lại nhiều điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Kinh tế phát triển, đời sống được nâng cấp, bạn bè quốc tế tìm đến. Đối với họ, đó là cả một thời kỳ phát triển đáng mừng.

Vì chỉ mới mấy chục năm trước đây thôi, đời sống của người dân Đà Nẵng còn vô cùng khó khăn. Nếu như nói Singapore là con rồng châu Á thì Đà Nẵng chính là con rồng của Việt Nam.

Tài Liệu Thuyết Minh Về Phong Thủy Kinh Thành Huế

Tổng thể kinh thành Huế được đặt trong khung cảnh rộng, núi cao thế đẹp, minh đường lớn và có sông uốn khúc rộng. Núi Ngự Bình cao hơn 100m, đỉnh bằng phẳng, dáng đẹp, tọa lạc giữa vùng đồng bằng. Hai bên là cồn Hến và cồn Dã Viên ở vào thế tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ – là một thế đất lý tưởng theo tiêu chuẩn của phong thủy. Minh đường thủy tụ là khúc sông Hương rộng nằm dài giữa hai cồn cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho đô thành. Chính vua Gia Long đã đích thân nghiên cứu tìm hướng tốt và cuộc đất thuận tiện xây dựng kinh thành Huế.

Dân cư của 8 làng phải di dời đi nơi khác gồm: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, Thế Lại, An Bửu, trong đó đất làng Phú Xuân hầu hết đều nằm gọn trong phạm vi kinh thành sẽ xây. Vì thế, vua Gia Long đã cấp 30 mẫu ruộng, 3 khoảng đất để dựng nhà và 1000 quan để giúp dân Phú Xuân – 7 làng còn lại theo tài liệu của Tả tham tri Bộ binh Võ Liêm mỗi nhà “được cấp 3 lạng và mỗi ngôi mộ dời đi được cấp 2 lạng”. Nhà vua nghĩ rằng việc đền bù nhà cửa, ruộng vườn cần phải chu đáo, giữ yên lòng dân để bắt tay xây dựng trên tổng diện tích 520ha và chu vi 9.889m. Huỳnh Đình Kết nhận định đây là đợt giải tỏa lớn, triệt để và khẩn trương, tiến hành trong vòng 2 năm, riêng phần mộ vắng chủ quy tập về nghĩa trang Ba Đòn có đến 10.000 ngôi.

Vì sao vua Gia Long lại quyết định chọn hướng như thế? Nguyễn Đăng Khoa đề cập đến trong Kỷ yếu Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam, số 7 1991 rằng, những công trình kiến trúc của kinh thành Huế được tiến hành theo một hệ thống các quy tắc hết sức nghiêm ngặt của các hình thế núi sông, long mạch “mặt bằng và độ cao thấp của địa hình được người xưa quan niệm đó là văn của đất, có cao, thấp, là có sông, suối, đầm, núi, tạo ra những nhịp điệu riêng của từng vùng – những nhịp điệu lớn chung của nhiều vùng nhỏ tạo ra những đại cuộc đất”. Cụ thể hơn, Trần Đức Anh Sơn qua tài liệu về tư tưởng quy hoạch kinh thành Huế thời Gia Long giới thiệu trên tập Cố đô Huế xưa và nay do Hội Khoa học lịc sử Thừa Thiên – Huế và NXB Thuận Hóa ấn hành 2005, đã cho biết nội dung cuộc trao đổi với một người trong hoàng tộc uyên thâm về dịch học, lý số, phong thủy là học giả Vĩnh Cao theo 4 ý chính, nguyên văn:

– 1. Kinh đô, theo quan niệm phong thủy ngày xưa đều hướng về Nam nhưng ngay tại vùng Thừa Thiên, mạch núi Trường Sơn, đặc biệt là quần sơn kề cận kinh đô cho đến dãy Bạch Mã đều chạy theo hướng Tây bắc – Đông nam. Dựa vào thế đất ấy, kinh thành nhìn về hướng Đông Nam là tốt nhất.

– 2. Theo thuật phong thủy thì bất cứ một ngôi nhà hay cung điện gì thì ở phía trước gọi là chu tước (chim sẻ đỏ) thuộc hướng Nam, hành hỏa. Phía trái (từ ngoài nhìn vào) gọi là bạch hổ (hổ trắng) thuộc hướng Tây, hành kim. Phía phải gọi là thanh long (rồng xanh) thuộc hướng Đông, hành mộc. Phía sau gọi là huyền vũ (rùa đen) thuộc hướng Bắc, hành thủy. Đặt kinh thành dựa theo hướng thiên nhiên, dùng ngũ hành mà sinh khắc chế hóa để sửa đổi, tạo thế quân bình, rồi dùng ngũ hành mà tạo lục thân để đoán vị và quy hoạch, bố tri cung điện. – 3. Phong thủy cũng quan niệm rằng: phía Tây thuộc về chủ; phía Đông thuộc về thê thiếp, bạn bè ti bộc, vật giá, châu báu, kho đụn, vật loại… tức là những thứ mà chủ sai khiến, sử dụng; phía sau thuộc về tử tôn, môn sinh, trung thần, lương tướng. Từ đó, việc bố trí các cung điện, dinh thự… trong Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành cũng dựa vào nguyên tắc này mà phân bổ chức năng. – 4. Kinh thành Huế xây dựng ở vùng đất có nước phủ bốn bề, theo phong thủy là nơi tụ thủy, đất phát tài. Nhưng phía Tây kinh thành lại có khí núi xung sát, sông Hương uốn khúc vì thế hành kim rất vượng. Điều này sẽ có hại cho phía Đông, chủ hành mộc (kim khắc mộc). Mộc yếu sẽ dẫn đến sự hạn chế về của cải, dân chúng, thương mại…, kim động sẽ gây hại cho dương trạch nên dễ sinh tật bệnh, tổn hại gia đạo. Vì thế phải xây chúa miếu ở phía Tây để trấn. Đó là lý do ra đời Văn Miếu, chùa Thiên Mụ ở phía Tây kinh thành Huế.

Mặt khác, để tạo được phong thủy tốt, các nhà quy hoạch không chỉ xem hướng công trình mà cần xem xét ảnh hưởng của bố trí nội thất, các bộ phận và kế cấu trong công trình như chiều dài, rộng, cao, các cột, cửa… Ví dụ: Các bộ phận của Ngọ Môn đều dựa vào những con số theo nguyên tắc của dịch học như số 5, số 9, số 100.

Vận dụng dịch lý và thuật phong thủy bên bờ sông Hương

Nói rõ hơn, Nguyễn Đăng Khoa qua tài liệu đã dẫn, nhận xét: “Sông Hương theo cách nhìn địa lý cổ, là một dòng sông chảy ngược từ phía Nam lên phía Bắc. Theo quan niệm trong Kinh dịch thì gốc của thủy phải ở phía Bắc và chảy về Nam (khởi từ Khảm và tụ về Ly). Tất nhiên, ở Huế, dòng chảy của sông Hương do địa hình quy định, phía Nam sông Hương là vùng đồi núi cao, hợp lưu của hai nhánh sông Tả và Hữu trạch. Hai dòng nước này hợp lại ở thượng nguồn sông Hương, giữa 3 khu núi cao là Kim Phụng, Thiên Thọ và núi Vưng. Nhìn rộng ra thì cả khu vực đồi núi này bắt nguồn từ Trường Sơn, tạt ngang ra biển, tạo nên một đại cuộc đất là Hoành Long. Dòng sông Hương trong lặng tỏa rộng về phía Bắc ra cảng Thuận An. Dòng nước uốn lượn nhiều lần qua đồi Vọng Cảnh, chảy về phía Nguyệt Biều, rồi lật trở lại chảy qua mặt thành. Theo sách Địa đạo diễn ca của Tả Ao thì long mạch uốn lượn gấp khúc càng nhiều thì càng chứng tỏ đất có nhiểu sinh khí. Mặt đất nhược dần về phía kinh thành tạo ra một vài thế đất kết tụ gọi là Thủy Hử (phần đất được sông đổi hướng chảy ôm lấy tạo thành). Những loại mạch sơn cước như vậy khi xuống thấp thấy hiền hòa hơn, chính là nơi tạo ra những huyệt địa kết phát. Vua Gia Long đã chọn được khu vực tốt cho việc xây thành, lập kinh đô. Thành có án, có tả thanh long, hữa bạch hổ triều củng, có “thủy đáo điện tiền” và đoạn sông trước thành đồng thời đóng vai trò minh đường cho thành”.

Về vị trí và phong thủy của kinh thành Huế, các sử quan triều Nguyễn đã nhận xét: “Kinh sư là nơi miền núi miền biển đều hợp về, đứng giữa miền Nam miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng; đường thủy thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm, đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân ngăn chận; sông lớn giữ phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng cuốn hổ ngồi, hình thể vững chãi, ấy là do trời đất xếp đặt, thật là thượng đô của nhà vua”.

Phong thủy của Thủy đạo – “hệ xương nước” điều hòa phong thủy cho Kinh thành Huế

Trong cảnh quan thì yếu tố Thủy (mặt nước sông, hồ, ao) và Thủy đạo (mạng lưới đường thủy gồm các sông, hồ, ao nối với nhau) là thành tố không thể thiếu trong bố cục cảnh quan ở các khu di tích Huế. Ngoài ý nghĩa về mặt triết lý phong thuỷ thì nó còn đóng vai trò quan trọng trong điều tiết nước, cải tạo đất đai, điều hoà môi trường sinh thái xung quanh… được xem như “hệ xương nước” ở Kinh thành Huế.

Đến Huế hiện nay, khi đi dạo quanh ở bờ bắc sông Hương nơi tập trung phần lớn hệ thống kiến trúc của di tích Huế thì sự hiện hữu nhiều các sông, ao, hồ – là dấu tích của vua để lại nhằm điều hòa khí hậu cho một vùng. Những thế hệ sau này tại cố đô lớn lên đều cảm nhận được điều đó, khi bờ bắc rất xanh mát và dễ chịu bởi hệ thống Thủy đạo cực kỳ quý giá này. Hiện nay, cùng với đà phát triển của đô thị, sự lấn chiếm, san lấp trái phép của người dân đã làm cho diện tích các ao hồ di tích Huế bị giảm thiểu một cách nghiêm trọng, nhiều đoạn lòng hào bị san lấp nghiêm trọng, bờ hào bị người dân lán chiếm làm nhà ở. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, trong khu vực Kinh thành có hơn 50 hồ nay đã bị lấp mất gần 1/5, số còn lại (trừ hồ trong khu vực Hoàng Thành) đang bị lấn chiếm, hoặc trở thành nơi xả rác, chất thải của người dân. Các loại động thực vật thuỷ sinh đặc trưng cho hệ thống ao hồ này gần như không còn hoặc còn rất ít, diện tích mặt nước hoang phế, cây cỏ dại, rong bèo mọc tràn lan gây mất mỹ quan cho khu vực. Nguồn nước đều trong trạng thái ô nhiễm ảnh hưởng đến môi trường môi sinh của khu vực.

Nguồn: Đại Dương (Dân Trí) – Tạp chí Duyên dáng Việt Nam – Lý học đông Phương – Admin chúng tôi

Với tài liệu tham khảo này, City Tour Đà Nẵng hy vọng các bạn hướng dẫn viên sẽ lưu lại cho mình những kiến thức nền tảng tốt nhất để hành nghề, giúp du khách hiểu hơn văn hóa lịch sử quê hương mình. Thân mến!

Sitcom – Phim Dài Tập (

—–[ĐL] TẾ CÔNG: LA HÁN PHỤC MỆNH (1995) – 511 tập—–

Châu Minh Tăng, Mộ Ngọc Hoa, Ngọc Thượng, Trần Văn Sơn, Trịnh Chí Vỹ…

 Vốn là Giáng Long La Hán xuống trần cứu nhân độ thế, mặc dù đi tu ở Linh Ẩn Tự nhưng ông không bao giờ giữ chay giới: thích ăn thịt và uống rượu. Bề ngoài lúc nào cũng ăn mặc rách rưới, dơ bẩn.

Tay phe phẩy chiếc quạt đi thong dong, miệng thường nghêu ngao ca hát: “Áo cũng rách, giày cũng rách. Quần áo trên người ta cũng rách. Người cười ta, hắn cười ta. Cả Phật Tổ cũng đang cười ta”.

—–[ĐL] NGHỊCH CẢNH (2002)—–

Giang Quốc Bân, Giang Thanh Hàm Hà Như Vân, Hà Thúc Nguyên, Long Thiệu Hoa, Lý Huệ Anh, Nghê Tề Dân, Ngọc Thượng, Phương Hinh…

Câu chuyện diễn ra vào thời kỳ ĐL dưới sự cai trị của NB. Phim lột tả rõ các ân oán tình thù của gia tộc 3 đời, với các thử thách của đường đời, từng bước chứng kein61 tình thân gia đình, tình yêu thương đan xen là sự khắc khổ với bao gian truân của những mảnh đời sinh sống torng thời kỳ này.

—–[ĐL] TÌNH ĐẦU KHÓ PHAI – 

The Unforgettable Memory (2004-2006) – 864 tập—–

Vương Thức Hiền, Trương Cầm, Trương Phụng Thư, Hàn Du, Lưu Chí Hàn, Lý Lý Nhân, Lý Hưng Văn, Dương Bảo Vỹ, Nhạc Hồng…

Tình Đầu Khó Phai là câu chuyện về số phận vươn lên của mỗi người, về thông điệp cuộc sống. Theo như mình nghĩ,  Tình Đầu Khó Phai chính là mối tình đầy trắc trở, gian nan đến bi thảm của một Vương Thắng Thiên – tay trắng làm nên sự nghiệp với một Phương Lệ Châu – giỏi trong giỏi cả ngoài.

—–[ĐL] VÒNG XOÁY KIM TIỀN – 

The Golden Ferris Wheel (2005) – 400 tập—–

Giang Hồng Ân, Miêu Khả Lệ, Lâm Vy Quân…

Nội dung bộ phim kể về cuộc đời của Thẩm Tái Thiêm, chủ tịch tập đoàn kinh doanh Tân Phú, người đàn ông thành đạt được nhiều người kính trọng. Bắt đầu bằng hai bàn tay trắng, với sự thông minh, nhanh nhạy bắt kịp thời thế của xã hội, ông đã thành công khi sở hữu khối tài sản khổng lồ và trở thành người giàu có nhất Đài Loan. Tuy nhiên, đứng trên đỉnh cao danh vọng cũng đồng nghĩa với sự cô đơn, với những biến cố, thử thách ngày một lớn dần giữa các thành viên trong gia đình và những người xung quanh Tái Thiêm…

—–[TQ] THẦN CƠ DIỆU TOÁN LƯU BÁ ÔN – 

The Amazing Strategist Liu Bo Wen (2006-2008) – 404 tập—–

Huỳnh Thiếu Kỳ, Hoắc Chính Kỳ, Giản Bái Ân, Trần Á Lan, Dương Hoài Dân…

PHẦN I: Đạo cao một trượng – 20 tập (1-20)

PHẦN II: Tình thiên hận hải – 22 tập (21-42)

PHẦN III: Thất tuyệt trận – 27 tập (43-69)

PHẦN IV: Cửu quan thập bát trảm – 30 tập (70-99)

PHẦN V: Trường sinh kiếp – 37 tập (100-136)

PHẦN VI: Long trân châu / Nộ phạm thiên điều – 53 tập (137-189)

PHẦN VII: Hoàng thành long hổ đấu – 120 tập (190-310)

PHẦN VIII: Đại náo nữ nhi quốc – 56 tập (311-367)

PHẦN IX: Bí mật rồng nam vu lý – 36 tập (368-404)

Triều Minh, Lưu Bá Ôn được xem là khai quốc công thần, là cánh tay đắc lực của Hoàng đế Chu Nguyên Chương. Nhưng cũng chính vì sự hơn người ấy, Lưu đã gặp không ít khó khăn do sự tị hiềm của kẻ xấu.

Lợi dụng tình yêu của Chu Hoàng Đế dành cho Nam Phong – công chúa triều Nguyên, và tình yêu của A Tú – thanh mai trúc mã của Lưu Bá Ôn – dành cho Lưu Bá Ôn, Hồ Thừa Tướng âm thầm gây nên sóng gió trong cung đình Đại Minh. Cũng từ đó, triều Minh chao đảo trong làn sóng đấu tranh do bọn gian thần gây nên…

—–[ĐL] KHI NGƯỜI TA YÊU – 

The Spirits of Love (2006–2008) – 788 tập—–

Trương Minh Kiệt, Trần Mỹ Phụng, Long Thiệu Hoa, Lý Chính Dĩnh, Lục Nguyệt, Phương Hinh…

Cuộc sống luôn có những tình cảm mới giúp nhau cảm thấy yêu đời, và trong phim cũng nói lên được những điều này, khi người ta yêu sẽ có những cảm xúc trái chiều, hạnh phúc, đắng cay, vui cười, than khóc và chưa kể những thủ đoạn bất chấp tất cả để dc bên người mình yêu.

—–[ĐL] CHUYỆN BÊN NHÀ MẸ – 

Mom’s house (2008) – 1080 tập—–

Đường Mỹ Vân, Thạch Anh, Thôi Hạo Nhiên, lôi Hồng, Lưu Tú Văn, Chu Tuệ Trân…

“Người ta nói con gái gả ra ngoài như bát nước đổ đi, nhưng nhà mẹ vẫn mãi mãi là nhà của con gái”. Sinh được ba cô con gái, mặc dù hết mực thương yêu nhưng thầy hiệu trưởng Lâm cũng vô cùng nghiêm khắc trong việc dạy dỗ với niềm tin một nền tảng đạo đức vững chắc sẽ giúp con gái tìm được hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân sau này.

Rồi cả ba cô con gái nhà họ Lâm cũng lần lượt theo chồng, rời bỏ mái nhà êm ấm của cha mẹ, họ về làm dâu những gia đình có hoàn cảnh khác nhau và cuộc đời của ba chị em cũng từ đó rẽ lối.

—–[ĐL] ĐỜI SỐNG CHỢ ĐÊM – 

Night Market Life (2009) – 820 tập—–

Lưu Vũ Khiêm, Bành Mẫn Gia, Lý Ngọc Phong, Phó Bội Từ, Phó Hién Hạo, Hứa Dực Xuyên, Trần Mỹ Phụng, Giang Tổ Bình, Nghê Tề Dân, Trương Thần Quang…

Bộ phim khắc họa cuộc sống của các nhân vật ở khu chợ đêm Kim Hoa, tường thuật câu chuyện về cuộc đời và số phận của một thế hệ được sinh ra ở các khu chợ đêm. Phim là chuỗi dài của những tình tiết kịch tính, gay cấn và mâu thuẫn trong các mối quan hệ gia đình, xã hội thường xuyên lên đến mức cao trào.

—–[TQ] LONG DU THIÊN HẠ—–

Vương Xán, Ngô Hạo Thăng, Chu Minh Tăng, Phương Tử Hiên…

PHẦN I (2009) – 38 tập

PHẦN II (2010) – 39 tập: Tú cầu kì án – Quỷ tân nương – Chân giả quốc chủ – Huyện lệnh hồ đồ diệu khâm sai

PHẦN III (2013) – 35 tập: Huyết kỳ lân – Phàn quế đoạn mộng – Vô đồng trần – Đoạn tý quan âm

Tư Mã Ngọc Long sau khi phục quốc, vẫn không quên tìm kiếm Thái hậu thất lạc, Ngọc Long đổi tên thành Sở Thiên Hựu, cùng Trung nghĩa hầu Triệu Vũ, hồng nhan tri kỉ Bạch San San, cùng với Đinh Ngũ Vị tinh thông y thuật, lại hay gây cười, tất cả cùng lên đường tìm kiếm Thái hậu.

Trên đường đi, Ngọc Long cùng mọi người diệt trừ những tên tham quan ô lại, phá được nhiều vụ án ly kỳ, giúp dân tình rửa sạch án oan…

—–[ĐL] TAY TRONG TAY – 

Hands (2011) – 755 tập—–

Giản Bái Ân, Vương Thiệu Vĩ, Tạ Thừa Quân, Liên Tĩnh Văn, Lưu Chí Hàn, Lý Yến, Trần Bội Kỳ, Lâm Hữu Tinh, Lý Dịch, Hoắc Chính Kỳ, Lâm Tú Linh…

Câu chuyện xoay quanh tiệm bánh ú nhân thịt “Giang Ký” trứ danh của nhà họ Giang. Trong khu chợ không ai là không biết đến tiệm bánh của vợ chồng Giang Hải Long và Liêu Lệ Quân. Họ có ba người con ruột và một con nuôi đều ở tuổi trưởng thành, mỗi người một tính cách, tạo nên nhiều tình huống bi hài cười ra nước mắt.

—–[ĐL] PHONG THUỶ THẾ GIA – 

Feng Shui family (2012) – 425 tập—–

Mai Phương, Trần Tùng Dũng , Mã Như Phong, Lâm Tại Bồi, Kha Thúc Nguyên, Lưu Tú Văn…

Ở một trấn nhỏ, có hai anh em Lâm Thanh Phong và Lâm Thanh Thuỷ. Nếu như người anh sống cuộc đời thiếu thốn, nghèo khó thì người em tận hưởng phú quý trong danh vọng, giàu sang

Vào ngày hội lớn, Thanh Thuỷ xin được một quẻ đoán vận mệnh: “Phong Thuỷ thế gia” với ý nghĩa anh em thương yêu, đoàn kết thì gia tộc sẽ hưng thịnh. Nhưng Lại Thanh Thuỷ một mực cho rằng điều đó có nghĩa là tin vào phong thuỷ thì gia đình của ông sẽ trở nên giàu có và những mâu thuẫn cũng thật sự bắt đầu từ đây.

—–[ĐL] THỔ ĐỊA TRUYỀN KỲ (2013) – 120 tập—–

Ngô Trấn Cũ, Quách Thiếu Vân, Liêu Tuấn, Thi Vũ, Trần Đức Dung, Khưu Lâm Lâm…

Trong ngôi miếu nhỏ, gia đình của vợ chồng thổ địa cũng đầy màu sắc như rất nhiều gia đình khác chốn nhân gian, có yêu thương, hiểu lầm, có ghen tuông, hờn giận. Thổ địa gia gia nhân hậu, luôn muốn cứu độ thế gian nhưng lại rất sợ vợ… và bao câu chuyện bi hài cũng bắt đầu từ đó.

—–[ĐL] NHÂN GIAN HUYỀN ẢO (2015) – 1000 tập—–

Một bộ phim về đời sống sâu sắc được khắc họa rõ nét về cuộc đời con người, về nhân sinh xã hội. Con người trải qua bao đời với những hệ quả mà họ đã tạo ra. Cuộc sống có luân hồi và đạo lý, con người sống phải trải qua kiếp nạn theo luật luân hồi.

Người giấy báo ân (194-195)

Chuyển luân vương thẩm kỳ án (225-226)

Áo tiên của thất cô nương (227-228)

Lục tiên đồng đánh mèo (229-236)

Truyền kỳ thạch nhân phố (237-238)

Tiểu thư người cá (239-252)

Đòn gánh vàng của hiếu tử (253-256)

Tình mẫu tử (257-268)

Ma tổ hiện thần uy (269-272)

Tỳ hưu chiêu tài (273-274)

Thuỷ tiên mộng (275-276)

Hỷ thần đùa kim chư (277-280)

Đăng hầu cưới vợ (281-282)

Thiên khuyển kỳ duyên (283-284)

Chiếu cỏ hoá cầu thần (285-290)

Tân nương địa ngục (291-296)

Tế bạch hổ (297-298)

Trư tinh thạch hổ dĩ (299-300)

Lục phủ thiên tế tân doanh (301-306)

Mộng thê (307-308)

Mẹ cam lộ trị thần hay khóc (309-310)

Lệ âm dương (311-314)

Con rối cáo trạng (315-332)

Bạch cầu khai nguyệt (333-336)

Bà thổ địa trị gia (337-340)

Dấu chân tiên (341)

Nước mắt bát gia (342-344)

Ngũ quỷ làm kim sư (345-349)

Quan âm xăm thuốc (350-352)

Cóc và phụng hoàng (353-354)

Nữ cô độc mười tám lấy chồng (355-360)

Thọ tại hoàng công (361-365)

Khiêng vong kỳ đàm (366-369)

Bành hồ thất mỹ nhân (370-373)

Ma đen hoá mỹ nhân (374-376)

Thôn quái hoả (377-380)

Tráng cổ và qui tinh (381-386)

Trụ khói lộc cảng (387-388)

Giếng hầu thám (389-390)

Linh khuyển phá kỳ án (391-396)

Bành hồ gả quan tài (397-402)

Chiêu hồn thu phách tướng quân (404-406)

Chuột tài tặng bí đỏ (407-420)

Tháp ưng thất mỹ (421-424)

Giất trắng kiện âm trạng (425-436)

Trần tịnh cô độ huyết kiếp (437-440)

Kim âm chủ trị ruồi (441-448)

Mẹ quan âm hoài thai tiên (449-454)

Đuôi hổ tạo nhân duyên (455-456)

Cô dâu giấy đòi chồng (457-462)

Truyền thuyết sữa thạch mẫu (463-466)

Thiên lý nhãn tra án (467-472)

Thần chân gác trị trần thủ nương (473-482)

Truyền kỳ mạch liêu hoàn hồn (483-492)

Bí mật của hình nhân (493-498)

Ngũ độc đại công tử (499-506)

Phi thiên thạch trấn quỷ môn quan (507-516)

Lộc cảng hồ lô vấn (517-522)

Bí mật khoả nữ huyệ (523-524)

Duyên trời định (525-526)

Nam phương áo kim ma tố (527-534)

Ngưu chuyển càn khôn (535-536)

Nữ oa và tình thương (537-541)

Chung quỳ náo nguyên tiêu (543-548)

Bao công xử án quỷ mẫu (549-550)

Bà chúa trăn cảm hoá bạch tậc thất (551-554)

Điện mẫu bắt trộm chiếu gương (555-558)

Âm dương đào hoa song phiên khai (559-564)

Thuỷ lưu tiên cô (565-566)

Ma tổ vào ngục 100 năm (567-572)

Bao công xử án diêm vương (573-576)

Kỳ lân đá cứu mẹ (577-580)

Mười tám kho báu kim môn (581-582)

Thnầ y đại đạo công (583-588)

Bà mụ tống tử (589-592)

Bích nhãn tân nương (593-596)

Truyền thuyết cây nhân duyên (597-598)

Đậy hồn (599-600)

Oan hồn về đòi con nuôi (601-604)

Thiềm thử bất hiếu (605-608)

Chiên dầu bao công sống (609-614)

Thập phân liêu lấy kim tầm (615-620)

Thần kê thổ địa công (621-622)

Linh miêu đấu thập bát vương công (623-624)

Câu đố ngôi mộ trống (625-628)

Ốc bươu cô nương (629-630)

Nỗi oan người nhũ mẫu (631-632)

Đầu thành lôi bố thạch (633-636)

Quan cogn6 răng hô (637-638)

Thần linh của hình nộm (640-642)

Ngũ trang vương độ sát nhân ma (643-644)

Xin rùa vàng (645-646)

Lam đàm mạng đổi cá (647-650)

Nguyệt lão và thần tài (651-652)

Mộ người sống phát tài (653-654)

Bốn cảng ngọc hoàng tỉ (655-658)

Bất hiếu tử cưới bà cô hổ (659-660)

Tiễn thần nghèo (661-662)

Minh vương giải oán chú (663-666)

Thiên hậu mất tích 100 ngày (665-668)

Hổ thần ố hoàn nhậm thái tuế (669-672)

Bát tự kết nhân duyên (673-674)

Cây heo ngàn năm (675-678)

Yêu tinh mua mặt (679-680)

Khôi tinh gia trị trộm (681-682)

Hiếu tử thành hoàng gia (683-684)

Miệng bà mai (689-690)

Mỹ nhân tâm kế (691-696)

Thổ địa người nhật bản (697-698)

Huyệt nhền nhện đổi vận (699-700)

Thỏ thần lộng nhân duyên (701-704)

Thành hoàng gia cưới nhị phu nhân (705-706)

Van hà tiên tử (707-708)

Người chó hỏi tiên kiếp (709-714)

Long nữ bái quan âm (715-722)

Chổi thiên địa (723-725)

Cá chép song sinh (726-731)

Muỗi cắn ếch (732-733)

Bán vợ (734-736)

Một lạng thịt độ hoà thượng (737-739)

Giếng nhân duyên (740-741)

Chén trà của con dâu (742-744)

Trạch yên chi vạn đan (745-747)

Ma xui xẻo giả quan âm (748-750)

Bố đại hoà thượng (751-770)

Quan độ đất ma tổ (771-773)

Bia a di đà phật (774-778)

Cưới vợ xấu được phú quý (779-781)

Thái tử tân quân (782-783)

Ngân hàng đại phủ (784-786)

Huyệt cua phát tài (787-791)

Quán trọ tán tiên (792-793)

Kỳ duyên cá chép vàng (794-798)

Cô ghế đẩu (799-801)

Địa ngục a tỳ (802-806)

Bạch tậc thất à khâu võng xá (811-830)

PHẦN III

Thi chuyên liệt nữ hoàng mệnh (46)

Vương gia công thu bộ tướng (47-49)

Thiêng công điểm trạng nguyên (50-69)

Tân nương thần hoan hỷ (71-75)

Thông thiên thần trụ (76-87)

Hồng kỳ công (88-90)

Võ thần tài cầu được ước thấy (91-92)

Truyền kỳ bát chi lan (95-98)

Hổ gia tố hoá độ hổ cụt đuôi (99)

Trương gia công xuất tuần (100-101)

Cây nhân duyên (102-108)

Kim khổng tước học đòi cưới vợ (109-111)

Bí mật nhang trời (118-120)

Thổ địa công hoàn tục (121)

Lão nhị mẫu đền ơn (122-123)

Hắc hổ nghênh thần tài (124-133)

Tiên cô chuyển thế (134-136)

Thiên hậu phường trà (137-139)

Lời nguyền của sư tử đá (140-141)

Truyền kỳ đại đỉnh mất tích (142)

Chiết cổ thụ kỳ đàm (144-145)

Mạng hình nộm (146-148)

Nàng dâu bị nguyền rủa (149-151)

Tam thái tử thương kẻ ngốc (153-158)

Vương quân thiên tuế triển thần quy (169-173)

Kim nương kén rể (174-178)

Vết lở mặt người (179-182)

Nguyệt lão ép hồng loan (183-188)

Kiến trả ơn (189-193)

—–[ĐL] RỒNG BAY PHỤNG MÚA – 

Dragon Dance (2015) – 437 tập—–

Lưu Đức Khải, Diệp Hoan, Phương Tử Hiên, Vương Xán, Phương Hinh, Đường Mỹ Dân, Thạch Anh, Lôi Hồng, Lưu Tú Văn,..

Rơi vào vòng khốn khổ lao lý vì chử tình đã khiến cô gái chịu tội giết cha và bị trừng phạt. Bị đem ra sĩ nhục trước thiên hạ, bị chà đạp nhân phẩn. Đó là chế đồ hà khác của con người thời đó, Phụ nữ không có tiếng nói trong xã hội, chịu nhiều tập tục vô lý. Cùng đón xem để biết cô gái sẽ ra sao và có được hạnh phúc cho mình.

—–[ĐL] TÌNH ĐỜI (2017) – 598  tập—–

Tạ Thừa Quân, Lý Yến, Trần Quán Lâm, Lý Di, Hàn Du, Tăng Tiến Đình…

Phim xoay quanh những người bạn cùng lớn lên dưới mái trường đaị học như Thụy Phong, Di Tú, Triển Hoằng, Giai Giai, Tử Kỳ, Hiểu Đình, Tuấn Hựu, Tứ Giác… Tuy không chung lớp nhưng họ chơi rất thân, luôn sát cánh bên nhau sẳn sàng giúp đỡ nhau khi hoạn nạn, khó khăn. Đặc biệt họ cùng có chung một ước mơ: sống hết mình, cháy hết mình cho tình yêu và khát vọng tuổi trẻ…

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Tác Giả Đại Sư Lý Cư Minh – Thầy Khải Toàn

Đại sư Lý Cư Minh là Thầy Phong thủy nổi tiếng nhất hiện nay tại trung Quốc, ông đã viết nhiều cuốn sách hay về phong thuỷ, được xuất bản rộng rãi tại nhiều quốc gia, các công trình nổi tiếng của Ông có thể kể đến là tòa nhà Thiên tân ở Trung Quốc, sự hồi sinh của tập đoàn nước giải khát Coca Cola.

Tác giả Lý Cư Minh tuy tinh thông Dịch học nhưng không cố tình mê hoặc, cố gắng đem rất nhiều lý luận và phương pháp bí mật công khai với mọi người. Dùng phương thức đại chúng, dễ hiểu chia sẻ tinh tuý mệnh lý truyền thống với đông đảo bạn đọc, đồng thời đem phương pháp cải vận, chuyển vận thiết thực truyền lại cho mọi người

Ông cũng là tác giả rất nổi tiếng của các đầu sách chuyên sâu về Bát tự và dụng thần Bát tự. Hiện nay tuy đã lớn tuổi, nhưng Lý Cư Minh vẫn thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các lớp học Phong thủy. Ngoài ra, Ông cũng thường xuyên đi đây đó vãng cảnh Chùa, tổ chức từ thiện giúp đỡ người già neo đơn.

Nhiều năm gần đây, những tác phẩm của Lý Cư Minh rất được yêu thích. Ví dụ như “Cuốn sách đầu tiên học Phong thuỷ,  Kế hoạch đời người…” đều nhận được sự đón nhận của đông đảo bạn đọc, cũng là kinh điển cần thiết của các học giả chuyên nghiệp.

Và các đầu sách đã phát hành tại Viện Nam:

Khai mở thiền tâm. Tự xem la bàn theo mệnh nam, mệnh nữ. Đại sư lý cư minh dạy bạn – phong thủy nhập môn. Tướng nhà cát hung và phương vị cải vận. Đời người trên bàn tay. Mật tông nhập môn tu học. Lý Cư Minh luận về Mật tông (Tái bản). Đổi vận cho người mệnh khuyết Quyển thu đông (Tái bản). Khám phá phong thuỷ – 80 phương pháp khai vận. Đổi vận cho người mệnh khuyết Quyển xuân hạ (Tái bản). Tự xem phong thủy. Tự xem bát tự. Tự xem phong thủy 2016. Tự xem bát tự … Trong đó “Phong thủy cải vận dành cho mệnh thiếu kim thủy” và “Phong thủy cải vận dành cho mệnh thiếu mộc hoả” khá phổ biến

Xem mệnh khuyết theo mùa sinh:

Mệnh khuyết KIM

Mệnh khuyết THUỶ

Mệnh khuyết MỘC

Mệnh khuyết HOẢ